Án tru hiến, điều khoản tàn bạo của Luật Mô-sê?
08:36 31/08/2020
951
Kinh Thánh thường nói Thiên Chúa là Đấng giàu tình thương. Tại sao trong Luật Mô-sê lại có điều khoản tàn bạo là bắt Ít-ra-en phải giết hết quân thù, khi họ chiếm được một thành nào, ví dụ như khi họ chiếm được thành Giê-ri-khô?
Luật Mô-sê nói về “án tru hiến” trong Sách Đệ-nhị luật (7,1-5; 20,16-18). Nhưng trước khi bàn về khoản luật đặc biệt này, chúng ta cần có cái nhìn tổng quát về hoàn cảnh lịch sử của dân Ít-ra-en thời xưa.
1. Chức năng và giới hạn của Luật Mô-sê
Chúng ta cần biết rằng mặc khải của Thiên Chúa được thực hiện trong những hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Dân Ít-ra-en đã phải sống giữa những dân tộc ngoại giáo chung quanh với những nền văn hóa chưa tinh tế như ngày nay. Tất nhiên dân Ít-ra-en cũng đã phải chịu ảnh hưởng của những nền văn hóa ấy. Vì thế trong luật ông Mô-sê vẫn còn tồn tại những điều khoản lạ lùng gây phản cảm cho con người thời nay, ví dụ như những hành vi gian dối, những hành động vô luân, thậm chí những việc tiêu diệt kẻ thù hàng loạt.
Trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể đó, Thiên Chúa huấn luyện Dân Người dần dần, dẫn đưa họ từ tình trạng nô lệ (không chỉ trên bình diện xã hội, mà quan trọng hơn nữa là trên bình diện tâm linh: nô lệ đối với tội lỗi dưới mọi hình thức !) đến tình trạng con người tự do, con người như lòng Thiên Chúa mong ước. Luật Mô-sê được ban bố nhằm giáo dục con người một cách tiệm tiến : vì thế theo kế hoạch của Thiên Chúa, luật ấy chỉ có giá trị tạm thời. Đức Giê-su đã giải thích cho những người Pha-ri-sêu vì sao ông Mô-sê cho phép người ta ly dị : “Vì các ông lòng chai dạ đá, nên ông Mô-sê đã cho phép các ông rẫy vợ, chứ thuở ban đầu, không có thế đâu’ (Mt 19,8). “Thuở ban đầu”, tức là ý định nguyên thủy của Thiên Chúa như được nói trong sách Sáng thế. Luật Mô-sê có mục đích dẫn dắt những người « lòng chai dạ đá » dần dần đến với Đức Ki-tô là A-đam mới của nhân loại. Chính Đức Ki-tô kiện toàn Luật Mô-sê bang lời dạy và gương sống của Người.
================
"Luật Mô-sê được ban bố nhằm giáo dục con người một cách tiệm tiến : vì thế theo kế hoạch của Thiên Chúa, luật ấy chỉ có giá trị tạm thời."
================
Trở về với luật ông Mô-sê: tuy bộ luật này còn hàm chứa nhiều điều bất toàn, nhưng so sánh với các tập tục và cơ cấu xã hội của những dân tộc ngoại giáo đương thời chung quanh, thì nó đã biểu lộ một sự tiến bộ lớn lao rồi. Ví dụ: luật “mắt đền mắt, răng đền răng” (Xh 21,23-25) của ông Mô-sê nhắm hạn chế sự báo thù: khi báo oán như thế phải có trọng tài chứng giám và không được gây thiệt hại cho người ta quá mức thiệt hại họ đã gây ra cho mình. Cũng vậy luật Mô-sê hạn chế hình phạt đối với các nô lệ, trong lúc nơi các dân tộc khác, ông chủ có toàn quyền trên lớp người đáng thương này. Như vậy so với các bản luật của các dân tộc thời ấy, thì luật ông Mô-sê nhân đạo hơn nhiều.
Sau hết chúng ta cần lưu ý một điểm quan trọng khác. Người tín hữu Do-thái trước thế kỷ 2 tCN chưa được mặc khải về đời sống mai sau: họ nghĩ rằng khi chết rồi, người lành và kẻ dữ đều xuống âm phủ cả. Còn Thiên Chúa là Đấng giàu tình thương, nhưng cũng là Đấng rất công bằng. Vậy thì chính ngay trong cuộc sống trên trần gian này, sự công bằng của Thiên Chúa được thể hiện. Thiên Chúa “xét xử” thế giới (từ ngữ Do Thái có nghĩa là cai quản và thống trị) một cách công minh bằng việc giữ gìn người ngay lành và tiêu diệt ác nhân. Sự dữ được hình dung một cách cụ thể nơi những con ngừơi, những quốc gia, những thể chế. Từ đó người ta thường trình bày Thiên Chúa như một chiến binh đánh bật gốc sự dữ và cứu thoát Israel bằng việc đánh bại các kẻ thù của nó. Nhưng Thiên Chúa cũng không bao dung Ít-ra-en một cách mù quáng: Người sẽ trừng phạt Ít-ra-en, khi nó phạm tội.
Tuy nhiên bức chân dung về vị Chiến Binh thiên giới này bớt phần khắc nghiệt qua các sự kiện sau đây:
- Thứ nhất, chiến tranh không phải là hoạt động chính, mà chỉ để chỉ cho thấy Thiên Chúa “xét xử” (nghĩa là cai quản) một cách công minh;
- Thứ hai, khi các tín hữu Do-thái, trong các Thánh vịnh, đòi “trả thù”, họ xin Thiên Chúa uốn nắn lại những bất công trong thế giới và họ hoàn toàn phó thác cho Thiên Chúa việc thực hiện;
- Thứ ba, Cựu Ước mặc khải một Thiên Chúa vừa nhân từ vừa công chính. Khi hai ý niệm ấy xem ra xung đột nhau, thì thường lòng nhân từ và thương xót chiến thắng. Các ngôn sứ đã ghi lại lời chứng của chính Thiên Chúa:
“Ta sẽ không hành động theo cơn nóng giận, sẽ không tiêu diệt Ép-ra-im nữa, vì Ta là Thiên Chúa, chứ không phải người phàm. Ở giữa ngươi, Ta là Đấng Thánh, và Ta sẽ không đến trong cơn thịnh nộ” (Hs 11,9).
hoặc:
“Chẳng lẽ Ta lại vui thích vì kẻ gian ác phải chết - sấm ngôn của ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng - Ta lại không muốn cho nó từ bỏ đường lối của nó mà được sống sao?” (Ed.18,23).
Bây giờ chúng ta có thể đề cập tới vấn đề “tru hiến” như được nêu trong câu hỏi.
==================
"Cựu Ước mặc khải một Thiên Chúa vừa nhân từ vừa công chính. Khi hai ý niệm ấy xem ra xung đột nhau, thì thường lòng nhân từ và thương xót chiến thắng."
==================
2. Biệt hiến
Từ Do-thái “herem” mang các nghĩa cơ bản sau đây:
- một lời khấn qua đó người ta cung hiến một cách dứt khoát (nghĩa là không thể chuộc lại) điều gì đó (người, súc vật hay của cải) cho Thiên Chúa. Trong trường hợp thánh chiến, người ta cung hiến tất cả chiến lợi phẩm (người cũng như của cải) cho Thiên Chúa: điều này đưa tới “án tru hiến”, tức là tiêu diệt tất cả nơi phe bại trận;
- hình phạt trục xuất khỏi cộng đoàn trong một số trường hợp: hình phạt nặng nhất có thể đưa tới án tử hình.
Về việc thi hành “án tru hiến” đối với các thành bại trận, chúng ta cần phân biệt hai thời điểm : thời điểm các sự kiện xảy ra (thế kỷ XIII tCN) và thời điểm các bản văn được soạn thảo (thế kỷ VI).
Các dữ kiện lịch sử về việc thi hành án tru hiến rất ít: sách Dân số (21,1-3) và Thủ lãnh (1,13) nói tới việc hai anh em Si-mê-on và Giu-đa thi hành án tru hiến khi chiếm thành Khooc-ma thuộc xứ Ca-na-an. Sách Giô-su-ê (chương 6) kể việc dân Ít-ra-en chiếm thành Giê-ri-khô, rồi “phóng hỏa đốt thành cũng như tất cả những gì trong đó”, trừ gia đình cô Ra-kháp là người đã trợ giúp những người Ít-ra-en do-thám trước đó.
Còn Sách Sa-mu-en (1Sm 15) kể lại việc vua Sa-un (thế kỷ XI) đã không thi hành đầy đủ án tru hiến đối với dân A-ma-lếch. Sau vua Sa-un thì người ta không còn thấy việc thi hành án tru hiến nữa, trừ 1V 20,42 theo đó thì một vị ngôn sứ vô danh nào đó đòi phải thi hành án này. Đàng khác án tru hiến chỉ được thi hành trong xứ Ca-na-an mà thôi, chứ không phải đối với những thành ở xa (Đnl 20,15-18); lý do là “chúng (dân Ca-na-an) sẽ không dạy anh em học đòi mọi điều ghê tởm chúng làm để kính các thần của chúng, khiến anh em phạm tội nghịch cùng ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em”.
Như đã nói ở trên việc Ít-ra-en tiêu diệt người, súc vật và của cải của đối phương nằm trong khung cảnh các nền văn hóa thời xưa, mặc dầu sự việc xảy ra rất ít tại Ít-ra-en. Ở Ca-na-an dân ngoại còn hỏa thiêu các hài nhi để làm của lễ dâng cho các vị thần; tại Át-xua người ta lột da sống các tù nhân…
===============
"Các dữ kiện lịch sử về việc thi hành án tru hiến rất ít... Đàng khác án tru hiến chỉ được thi hành trong xứ Ca-na-an mà thôi, chứ không phải đối với những thành ở xa."
===============
Các bản văn trong Luật Mô-sê nói về việc thi hành án tru hiến, được soạn thảo vào thế kỷ VI, trong Sách Đệ-nhị-luật (Đnl 7,1-5; 20,16-18). Cần lưu ý là tác giả sách này cũng là một trong những tác giả đã biên soạn quyển Giô-su-ê. Đứng sau các biến cố những 7 thế kỷ, tác giả muốn trình bày ông Giô-su-ê như một vị anh hùng dân tộc, nên đã cường điệu một số sự việc để đề cao các chiến công của ông. Đàng khác tác giả nhấn mạnh tới việc ông Giô-su-ê thi hành cách trung tín mệnh lệnh của Thiên Chúa để gìn giữ cho Dân khỏi bị lây nhiễm với lối sống của dân Ca-na-an. Thánh chiến với án tru hiến trong sách Giô-su-ê và sách Đệ-nhị-luật là một chủ đề tôn giáo nhằm đề cao sự tinh ròng của niềm tin vào Thiên Chúa, sự trung tín với giao ước; nó biểu lộ một sự đọc lại, một suy tư hậu thời về các biến cố quá khứ, và như vậy nó có tính cách lý thuyết hơn là thực tế lịch sử. Nói cách khác, sau nhiều thế kỷ sống chung đụng với các dân ngoại, dân Ít-ra-en đã nhiều lần sa ngã vào tội thờ tà thần của họ, bắt chước lối sống vô luân của họ; vì thế tác giả sách Giô-su-ê và sách Đệ-nhị-luật muốn đề cao lối sống nghiêm nhặt của cha ông (tuyệt đối không chấp nhận ảnh hưởng của các dân ngoại) như một lý tưởng tôn giáo cho các thế hệ về sau.
Noberto Nguyễn Văn Khanh, Ofm
===============================
Trích sách Xuất hành chương 23
22 Nếu thực sự ngươi nghe lời người, nếu ngươi làm mọi điều Ta nói, Ta sẽ trở thành kẻ thù của kẻ thù ngươi, đối phương của đối phương ngươi.
23 Thiên sứ của Ta sẽ đi trước mặt ngươi và dẫn ngươi vào xứ người E-mô-ri, Khết, Pơ-rít-di, Ca-na-an, Khi-vi, Giơ-vút; và Ta sẽ tiêu diệt chúng.
24 Ngươi không được phủ phục trước các thần của chúng, cũng đừng phụng thờ các thần ấy; ngươi không được làm theo các việc chúng làm, nhưng phải phá huỷ thần của chúng và đập vỡ các trụ đá của chúng.
25 Các ngươi phải thờ phượng ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa các ngươi; Người sẽ chúc phúc cho bánh ngươi ăn, cho nước ngươi uống. Ta sẽ đẩy bệnh tật xa ngươi.
27 Ta sẽ gieo kinh hoàng xuống nơi ngươi sẽ đến, sẽ gây rối loạn nơi hết mọi dân tộc ngươi sẽ tới, và Ta sẽ làm cho tất cả thù địch của ngươi phải quay lưng chạy trốn ngươi.
28 Ta sẽ thả ong bầu bay đi trước ngươi; chúng sẽ đuổi người Khi-vi, người Ca-na-an và người Khết đi khuất mắt ngươi.
30 Dần dần Ta sẽ đuổi chúng đi khuất mắt ngươi, cho đến khi ngươi sinh sản ra nhiều, mà thừa hưởng xứ này.
31 Ta sẽ ấn định ranh giới lãnh thổ ngươi từ Biển Sậy cho đến Biển của người Phi-li-tinh, từ sa mạc cho đến Sông Cả, vì Ta sẽ nộp dân bản xứ vào tay ngươi và sẽ đuổi chúng đi cho khuất mắt ngươi.
32 Ngươi sẽ không ký giao ước với chúng và các thần của chúng.
33 Chúng sẽ không ở trong xứ của ngươi, kẻo chúng làm cho ngươi lỗi phạm đến Ta, vì ngươi có thể phụng thờ các thần của chúng, và điều đó trở thành cạm bẫy cho ngươi."
===============================
Trích sách Đệ Nhị Luật
Chương 7
1 Khi ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), đưa anh (em) vào đất anh (em) sắp đến chiếm hữu, khi Người đuổi cho khuất mắt anh (em) nhiều dân tộc: người Khết, Ghia-ga-si, E-mô-ri, Ca-na-an, Pơ-rít-di, Khi-vi, Giơ-vút, bảy dân tộc đông và mạnh hơn anh (em);2 khi ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), trao chúng cho anh (em) và anh (em) đánh bại chúng, thì anh (em) phải tru hiến chúng, không được lập giao ước với chúng và không được thương xót chúng.3 Anh (em) không được kết nghĩa thông gia với chúng: không được gả con gái anh (em) cho con trai chúng và cưới con gái chúng cho con trai anh (em),4 vì điều đó sẽ khiến con trai anh (em) không còn theo ĐỨC CHÚA nữa, nó sẽ thờ những thần khác; bấy giờ ĐỨC CHÚA sẽ nổi cơn thịnh nộ với anh (em) và sẽ mau chóng tiêu diệt anh (em).5 Nhưng anh (em) phải xử với chúng thế này: bàn thờ của chúng, phải phá huỷ; trụ đá của chúng, phải đập tan; cột thờ của chúng, phải chặt đi; tượng thần của chúng, phải bỏ vào lửa mà thiêu.6Thật vậy, anh (em) là một dân thánh hiến cho ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em). ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em) đã chọn anh (em) từ giữa muôn dân trên mặt đất, làm một dân thuộc quyền sở hữu của Người.
16 Anh (em) sẽ thôn tính mọi dân mà ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh (em); đừng nhìn chúng mà thương hại và đừng phụng thờ các thần của chúng: điều đó có thể trở thành cạm bẫy cho anh (em).
Chương 8
5 Suy nghĩ lại, anh (em) phải nhận biết rằng ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), giáo dục anh (em), như một người giáo dục con mình.6 Anh (em) phải giữ các mệnh lệnh của ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), mà đi theo đường lối của Người và kính sợ Người.
Chương 9
4 Khi ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), đẩy lui chúng cho khuất mắt anh (em) thì anh (em) đừng tự bảo rằng: "Chính vì tôi công chính mà ĐỨC CHÚA đã đưa tôi vào chiếm hữu đất này"; thật ra chính vì các dân tộc ấy có tội mà ĐỨC CHÚA trục xuất chúng cho khuất mắt anh (em).5 Không phải vì anh (em) công chính hay vì lòng anh (em) ngay thẳng mà anh (em) sắp được vào chiếm hữu đất của chúng, nhưng chính vì các dân tộc ấy có tội mà ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), trục xuất chúng cho khuất mắt anh (em). ĐỨC CHÚA làm như vậy để giữ vững lời Người đã thề với cha ông anh (em), là ông Áp-ra-ham, ông I-xa-ác và ông Gia-cóp.6 Anh (em) phải biết rằng không phải vì anh (em) công chính mà ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh (em) miền đất tốt tươi ấy để anh (em) chiếm hữu; thật vậy, anh (em) là một dân cứng cổ.
Chương 12
29 Khi ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), đã quét sạch các dân tộc khỏi miền đất anh (em) sắp vào để trục xuất chúng cho khuất mắt anh (em), khi anh (em) đã định cư trên đất của chúng rồi,30 thì hãy ý tứ đừng mắc bẫy mà theo chúng, sau khi chúng đã bị tiêu diệt cho khuất mắt anh (em); hãy ý tứ đừng tìm các thần của chúng và nói: "Các dân tộc ấy phụng thờ các thần của họ thế nào? Cả tôi nữa, tôi cũng muốn làm như thế."31 Anh (em) đừng thờ ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), như thế, vì tất cả đều ghê tởm đối với ĐỨC CHÚA; điều Người ghét, thì chúng đã làm cho các thần của chúng; ngay cả các con trai con gái của chúng, chúng cũng đã bỏ vào lửa mà thiêu để tế các thần của chúng.
Chương 18
9 Khi vào đất mà ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh (em), thì anh (em) đừng học đòi những thói ghê tởm của các dân tộc ấy:10 giữa anh (em), không được thấy ai làm lễ thiêu con trai hoặc con gái mình, không được thấy ai làm nghề bói toán, chiêm tinh, tướng số, phù thuỷ,11 bỏ bùa, ngồi đồng ngồi cốt, chiêu hồn.12 Thật vậy, hễ ai làm điều ấy thì là điều ghê tởm đối với ĐỨC CHÚA, và chính vì những điều ghê tởm ấy mà ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), đã trục xuất các dân tộc ấy cho khuất mắt anh (em).13 Anh (em) phải sống trọn hảo với ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em).14 Các dân tộc anh (em) sắp trục xuất ấy thì nghe những thầy chiêm tinh, thầy bói, còn anh (em) thì ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), không cho làm như vậy.
Chương 20
10 Khi tiến đánh một thành, anh (em) phải kêu gọi họ giảng hoà.11 Nếu thành ấy đồng ý giảng hoà với anh (em) và mở cửa cho anh (em), thì toàn dân ở đó sẽ phải làm việc lao dịch cho anh (em) và làm tôi anh (em).12 Nhưng nếu thành ấy không chịu cầu hoà với anh (em) và khai chiến với anh (em), thì anh (em) sẽ vây hãm thành đó.13 ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), sẽ trao thành ấy vào tay anh (em), và anh (em) sẽ dùng lưỡi gươm giết tất cả đàn ông con trai trong thành.14 Chỉ có đàn bà con trẻ, gia súc và tất cả những gì ở trong thành, tất cả những gì chiếm được trong thành, thì anh (em) mới được giữ lấy làm chiến lợi phẩm; anh (em) sẽ được ăn những gì đã chiếm của quân thù, những thứ mà ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh (em).
15 Anh (em) hãy xử như thế với tất cả những thành ở rất xa anh (em), những thành không thuộc số những thành của các dân tộc ở đây.16 Chỉ có những thành của các dân tộc này, mà ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh (em) làm gia nghiệp, thì anh (em) sẽ không để cho một sinh vật nào được sống.17 Thật vậy, anh (em) sẽ phải loại trừ chúng hoàn toàn: người Khết và người E-mô-ri, người Ca-na-an và người Pơ-rít-di, người Khi-vi và người Giơ-vút, như ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), đã truyền cho anh (em);18 như thế, chúng sẽ không dạy anh em học đòi mọi điều ghê tởm chúng làm để kính các thần của chúng, khiến anh em phạm tội nghịch cùng ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em.